Chuyện
cầu cơ: Vị Thánh
Trại Nam Hà
--- Ba hở Ba ? ---Ờ, Ba đây. Ba mới đưa hai
đứa nhỏ tới trường. Ba hay thật ! 83 tuổI vẫn còn lái
xe! Bước ra vườn thấy bóng dáng Ba lù khù
đang kéo một thùng rác thật lớn ra sân
trước, tôi lật đật chạy tới phụ
nhưng Ba tôi khoát tay biểu : ---Thôi con ! Ba làm quen rồi ! Tôi ái ngại nhìn theo, bùi ngùi nhớ hình
ảnh thời Ba còn giữ chức vụ Tham mưu
trưởng Quân đoàn 2, oai nghiêm trong bộ quân phục
đính ba bông mai trắng. Buổi trưa chỉ có hai cha con ngồi
ăn cơm. Trên bàn bày ê hề thức ăn của cô em
út mỗi sáng chịu khó dậy từ 6 giờ nấu
nướng. Tôi ngạc nhiên vì Ba không gắp những món
ngon mới nấu, Ba cứ loay hoay với hủ cá chà
bông. Chắc chắn đồ ăn thừa sẽ
cất vào tủ lạnh, rồi lại đổ cho đàn
mèo hoang sau vườn như mọi hôm. Tôi hỏi : ---Răng Ba không ăn mấy món kia Ba? ---Con Mỹ gởi từ Sài gòn qua cả
tháng mà không đứa mô ăn, ba phải ăn kẻo
bỏ uổng. Hồi còn ở tù Cọng sản làm chi có
được món quí như ri con ! Tôi nghĩ thầm sẽ dặn cô em bên
Việt nam đừng gởi đồ khô qua đây
nữa. Nó không biết Ba vẫn luôn luôn ám ảnh về
dĩ vãng hãi hùng của 13 năm tù cải tạo.Tôi tò mò
hỏi : ---Hồi ở trong tù Ba ăn chi rứa
Ba? ---Ba ăn sắn khô, loại dành cho súc
vật ăn và bo bo nguyên vỏ của Ấn Độ
viện trợ. Cực khổ lắm ! Mỗi ngày
đều có năm ba người chết vì đói, vì rét
hay lao động kiệt sức. ---Con nghe nói tù cảI tạo đói quá vô
rừng thấy rắn rít chi cũng bắt ăn
phảI không Ba? ---Đúng rứa. Con chi cũng ăn,
chỉ trừ con bù lon là không ăn thôi! Thành ra có một
số ngườI chết thảm vì ăn trúng
độc. Tôi ngạc nhiên : ---Con bù lon là con chi rứa Ba ? ---A, lối nói của anh em trong tù. Ý là …bù lon
đinh ốc ăn không được! Tôi bật cười nhưng vội nghiêm
lại khi chạm phải gương mặt u uẩn
của Ba. ---Có ai bỏ trốn không Ba? ---Chỗ đó toàn là đá vôi. Khó trốn
lắm! TrạI Ba ở có một số anh em trốn
thoát nhưng qua vài ba ngày sau cũng bị bắt lại. ---Họ bị đánh không Ba? Ba tôi phẫn uất: ---Úi chầu! tụi nó đánh gần
chết! Như trường hợp Linh mục Nguyễn
hữu Lễ bị đánh và bác Tiếu cũng bị
đánh gãy xương sườn.TộI nghiệp Bác qua
tới Mỹ chưa sướng được bao lâu
thì mất! Chút nữa Ba đưa con đọc cuốn
“Tôi phảI sống” của cha Lễ
viết. Tôi bàng hoàng nhớ tới ĐạI tá
Trịnh Tiếu, bác nguyên là Trưởng phòng 2, quân
Đoàn II, sau này bác làm Tỉnh trưởng Ban mê
Thuộc, là bạn thân của ba tôi và con gái bác là bạn
thân của tôi. Trước ngày vượt biên, Trúc Mai
tớI từ giã và cho biết bác Tiếu nhất
định trốn không ra trình diện cảI tạo,
nhưng không may cuộc vượt biên thất bại! Nghe chuyện ngườI đánh
ngườI, tôi bỗng nao nao buồn. Cùng một dân
tộc, cùng một màu da, cùng một tiếng nói mà họ
nỡ lòng nào! Ôi Cộng Sản Việt nam sao tàn nhẫn
quá ! * Pha ly nước trà sen bưng ra phòng khách,
tôi rón rén ngồI đốI diện vớI Ba. Bất
động, ngẩn mặt nhìn vào chân không, trên
gương mặt vốn cương nghị của Ba
đầy những nếp nhăn tuổI lão hằn sâu
biểu hiện niềm chịu đựng, nhẫn
nhục và cay đắng. Đôi mắt u uẩn xa xăm
dường như đang trở về quá khứ,
một quá khứ ai oán của tù nhân chính trị khóc cho
thân phận mình, cho đất nước và cho cả
một dân tộc Việt nam đang bị một bọn
ngườI dã man, vô lương tâm thống trị. Tôi chợt nhớ lạI khoảng năm 82
đang ở Pháp, được thư cô em bên nhà kể
chuyện lần đầu tiên thăm nuôi Ba: “Em nhận
Ba không ra chị ơi. Ba rụng hết răng rồi,
trông Ba như bộ xương khô xiêu vẹo biết
đi!” . Mặc dù tôi không quên gởI quà cho Ba nhưng trong
tôi vẫn áy náy mang mặc cảm mình thiếu sót bổn
phận làm con, vì đã không lặn lộI
đường xa vạn dặm đến thăm Ba,
động viên tinh thần trong lúc Ba đang ở trong
tận cùng của nổI nghiệt ngã cuộc
đời. Mẹ tôi mất vào lúc Ba đang du học bên
Mỹ, khi tôi tròn 13 tuổI. Cái tuổI dậy thì
đầy mộng mơ nhưng đột nhiên mất
thăng bằng, hụt hẩng tình mẫu tử và tôi
đã đặt tất cả niềm thương yêu,
ngưỡng mộ vào Ba. Cho dù đến bây giờ
vớI số tuổI 53, mãi mãi Ba vẫn là thần
tượng của tôi. Phá tan sự im lặng, tôi mờI Ba uống
nước và nhỏ nhẹ khơi chuyện: ---Ba có còn nhớ hết những nhà tù
của Ba không? ---Nhớ chớ sao không nhớ! Thời gian
lao lý của Ba bắt đầu vào tháng 6/1975. Ban
đầu chúng nhốt ở Long Khánh , sau nó đưa
tụi Ba về trạI SuốI Máu ở Biên Hòa.
Đến tháng 6/ 1976, nửa đêm tất cả bị
di chuyển ra ngoài Bắc ở tỉnhYên Báy. Có lần
nhóm Ba đi làm trong rừng, gặp một vài
ngườI cũ hồI xưa kiểu như Tri
Huyện, Chánh Tổng, Địa Chủ, quan chức
chính quyền quốc gia trong liên hiệp Pháp thờI
trước, nay vẫn còn bị quản thúc trên núi.
Họ kể bọn Cộng Sản độc ác
đến nổI khi họ lao động
được 1 hay 2 năm, trồng cây, trồng
chuốI khá rồI thì tụI nó bắt di chuyển đi
nơi khác và bắt đầu làm lại. Cái vòng luẩn
quẩn ấy đã mấy mươi năm rồi.
Họ uất hận và đau buồn lắm! Họ than
thở: “Chúng tôi cứ tưởng các ông ở trong đó
ra đây giảI phóng chúng tôi . Chớ ai ngờ bây giờ
các ông cũng bị lâm vào hoàn cảnh này thật là bi
đát không khác gì chúng tôi!”. ---Sau đó Ba bị đi đâu? ---Tháng 6/79 Trung quốc rục rịch
chuẩn bị cho tụi Việt Cộng bài học, do
đó các trạI tù bị di chuyển về trạI Nam
Hà, vùng rừng núi tỉnh Hà Nam Ninh. TrạI này gọI là
trại Ba Sao. TrạI Nam Hà do công an bộ nộI vụ
quản lý. Chế độ vô cùng khắc nghiệt,
cuộc sống hết sức bi thảm. Đúng là
địa ngục trần gian! Ngày mô cũng có vài
ngườI chết. Khiếp đảm lắm!
Những người nào may mắn có đức tin
chỉ biết thành tâm cầu nguyện vì đó là nơi
bám víu duy nhất để sống và nuôi hy vọng. Tất cả các tôn giáo đều cầu
nguyện. Gồm có đủ các vị lãnh đạo
tinh thần như Cao Đài, Hòa Hảo, Công giáo, Phật
giáo. Sau gần một tháng khẩn cầu thì tốI
12/12/1979 có một vị Thánh giáng cơ vào buồng 1,
tức là buồng của Thủ tướng Lộc, Phó
chủ tịch Thượng Viện Hoàng xuân Tửu, Linh
mục Nguyễn văn Minh, Bộ trưởng Lê
ngọc Chấn…Vị thánh là cụ Phan đình Phùng, danh
hiệu Tùng La. Cảm giác hồi hộp thích thú như
hồI còn bé được nghe kể chuyện siêu hình
thần bí, tôi rờI chỗ xích tới ngồI gần Ba
hơn. Tôi nôn nóng: ---Hay quá! Cầu cơ à! Thánh viết chi
rứa Ba? ---Thánh cho thơ: Đông phong thúc dục cảnh sầu
thương Sau đó Cụ cho luôn thơ bằng chữ
Nho: Trì trì bộ
bộ bộ trì trì Tôi ngẩn ngườI ra: ---Con không hiểu chi hết! ---Ý Cụ dạy là phải chậm từng
bước, ơn trên đang lo lắng cho mình. Còn đây
là bài Cụ cho về vấn đề cuộc
đời là một sự vay trả: Vay trả cuộc đờI thói
đổI thay Cụ dạy bài thơ này thuộc về
loạI thuận nghịch đọc. Đọc
ngược cũng được. Mây gió
đợI bằng sức thỏa vay Tôi ngạc nhiên bày tỏ niềm thán
phục: ---Tuyệt quá ! Thơ đọc
được cả hai chiều! Thấy tôi hăng say theo dõi câu chuyện, Ba
sôi nổi kể tiếp : ---Hồi ở trại Yên Báy chật
lắm ! Phải nằm nửa người thôi,
nằm nghiêng nghiêng với nhau vì không có chỗ. Khi về
trại Nam Hà cũng chật nhưng may nằm vừa
sát. Mỗi phòng có khoảng 100 tù nhân. Ba nằm gần anh
Dương ngọc Bảo, cựu đại tá tham
mưu trưởng bộ chỉ huy tiền phương
quân đoàn 4 và anh Đàm Quang Yêu, cựu Đại tá
tư lệnh biệt khu Quảng Đà. Phòng có hai
tầng, tầng trên là ván gỗ. Ba lựa ngủ
tầng dưới ciment vì Ba sợ rệp, nhưng
nền ciment thì lại bị lạnh lắm ! Ba
ở buồng 8, thành khẩn khấn nguyện xin Thánh
Tùng La soi sáng cho biết tương lai bản thân mình
sẽ được trở về quê hương hay là
sẽ bị ngã gục trong lao tù Cọng sản. Sáng ngày
khi trạI tù mở cổng, anh Hoàng xuân Tửu ở
buồng 1, là Phó chủ tịch Thượng Viện,
đưa bài thơ có ghi dướI hàng chữ “Cho
ĐạI tá Bình hiện đang khấn nguyện ở
buồng 8”. Anh kể anh thưa vớI Cụ: “ Con
biết anh Bình. Vậy con xin nhận bài thơ này. Sáng ngày
lao động con sẽ đưa lạI cho anh Bình”. Tôi nôn nóng : ---Ba còn thuộc không Ba? Gương mặt Ba rạng rỡ, say
sưa ngâm: Huế xinh Huế đẹp đất
thần kinh Anh Tửu kể thêm : Cụ giảI thích Cụ
dùng chữ “khốI tình” có ý là tình nhà, tình
nước, tình dân tộc. Ba đọc xong lòng cảm
thấy vui mừng và phấn khởI vô cùng, chứa chan
hy vọng và tin tưởng ở tương lai. Hàng tháng
ngày rằm hay mồng một hoặc lúc nào thuận
tiện thì anh em tất cả có thành tâm cầu nguyện
là được ngài giáng cho thơ, tùy theo sở
nguyện của cá nhân hay tập thể. Đặc
biệt những bài thơ Cụ cho Ba thường có
chữ Hương Bình. Ngày sau trở
lại chốn Hương Bình ---Chắc ai cũng xin Cụ cho biết có
hy vọng ngày về ! ---Đúng như rứa. Cụ giáng thơ: Thu thiên sương giáng động tây
phong Sau này về được rồI thì
mới nghiệm lờI Cụ cho rất linh ứng.
Ngọc thố là con thỏ. Người Tàu gọi mão là
thỏ. Đa số anh em được về năm mão,
trong đó có Ba. ---Cụ cho tất cả bao nhiêu bài thơ
hở Ba ? ---Cho chung hơn cả ngàn bài. Tùy theo sở
cầu, sở nguyện của mỗi người thì
Cụ cho. Phần Ba được khoảng trăm bài.
Ba có ghi lại những bài còn nhớ. À, một chuyện
đặc biệt… Anh Nguyễn văn Hiểu làm
tòa lãnh sự Mỹ ở Nha Trang, anh đã đi theo tàu
Thương Tín qua đảo Guam nhưng anh tranh
đấu để đòi về. Ngờ đâu Việt
Cộng nó cũng nhốt anh ở trại Nam Hà. Ban
đêm khi anh em cầu nguyện, thường thấy anh
ngồi lâm râm một góc. Sau này mới biết té ra anh
cũng đang khấn Cụ, xin Cụ cho biết
tương lai. Anh được Cụ giáng thơ : Chưa hiểu
được mình khó hiểu ai ! Sáng ngày đi lao động anh
được người ta đưa thơ Cụ cho
anh. Anh vui mừng lạy Cụ quá trời ! Hay ở
chỗ anh này tên Hiểu nhưng chưa hiểu
được người. Chưa hiểu
được mình khó hiểu ai ! ---Có ông nào hỏi chuyện vợ con không
Ba ? ---Có chớ ! Một ông giám đốc
khấn nguyện xin Cụ cho biết vợ anh hiện
đang ở bên Pháp, sau này anh được tái ngộ
hay không ? Cụ cho thơ : Xa xuôi khó
nổI tỏ lòng nhau Nhận thơ, anh mừng quá bái lạy
bốn phương cảm tạ Trời Đất .Tinh
thần anh lên làm các bạn tù cũng vui lây. Tôi thắc mắc: ---Khi cầu cơ bộ không ai sợ
bọn ăng-ten báo cáo sao Ba? ---Sợ chớ răng không sợ! Nhưng
mà mình canh chừng tụI nó ngủ mớI dám cầu. Có
một vị Tuyên úy trình vớI Cụ hiện bây giờ
ăng-ten trong trạI rất nhiều, hể hở ra là
tụi nó báo cáo. Cụ hạ bút ngay: Đông
đến mang theo giá lạnh về ---Chuyện Cụ giáng cho thơ có
được phổ biến không Ba? ---À, Ba có hỏI Cụ: “ Sau này con
được về con sẽ kể chuyện Cụ
giáng xuống giúp bọn con, con xin thỉnh ý Cụ?”
Cụ dạy: “ Cứ nói, nhưng vớI ngườI
thiện tri thức có học mình nên nói. Còn với kẻ
phàm phu tục tử đã không biết gì mình không nên.
TạI sao? Là vì họ đã không hiểu mà nhiều khi
họ còn báng bổ thì sẽ có tội với Trời
Đất ». Cho nên Cụ dạy : « Bỉ
nhơn mỗi lần giáng trần đều có cho thơ
Đường. Bởi vì sao ? Bởi vì âm
dương cũng có chánh tà. Nhiều khi ma quỷ nó
về, nó hiện vô cơ huyênh hoang, nó nói tầm bậy.
Cho nên Cụ Phan đình Phùng, tức là Thánh Tùng La thì luôn
luôn phải có thơ Đường. Không phải thơ
Đường tức là không phải Cụ. Cụ
bảo mục đích Cụ cho con cháu biết
rằng : « Cuộc thế có thăng trầm, tình
đời có đen bạc nhưng luôn luôn Trời
Đất Thần Thánh Thần Linh vẫn ở với
thế gian”. Cụ cho bài kệ. Cụ dạy khi nào
nghĩ tới Cụ hãy đọc bài kệ này : Thiên hành kỷ quá. Thiên địa vô
tư. Thậm ư huyền diệu. Nhật chiếu
quang minh. *** Ngài làm y theo lời Phật dạy và sau
đó người mẹ thoát được địa
ngục. Tôi cảm thấy câu chuyện vô lý. Chư
Tăng có quyền năng gì thắng được
luật nhân quả!? Tôi đặt nghi vấn có biết
bao nhiêu Phật tử đã tin mù quáng vào câu chuyện này
chỉ vì ông bà mình tin thì mình tin theo! May thay một anh bạn Phật tử
đã lý giảI thế giớI tâm linh bằng tuệ giác
một cách rất là khoa học. Trước hết anh
trình bày về hiện tượng vật lý… Nếu
cả ngàn người đi trên một cái cầu không
đồng nhịp thì nó không sao, nhưng cũng ngàn
ngườI đó cùng bước đồng nhịp thì
tạo năng lượng làm cầu sụp đổ.
Điều này giảI thích nhờ chú nguyện của
Chư Tăng đông đảo và thanh tịnh sau 3 tháng
nhập thất là trợ lực bên ngoài, cọng với
Phật tánh sám hối là trợ duyên nên bà Thanh Đề
thoát được địa ngục. Trường hợp một số
người tham dự khóa thiền ở làng Mai xứ
Pháp đã khóc sung sướng khi được nghe
lời Thầy Nhất Hạnh thuyết pháp. Những
ngườI đàn ông này ngạc nhiên vì hiện
tượng khóc chưa bao giờ xảy ra vào những
lần trước đây. Chính nhờ năng
lượng của gần hai ngàn tín đồ các
nước trên thế giới ăn chay cả tuần
lễ và thành tâm cầu nguyện, đã trợ lực làm
sáng lên Phật tánh của họ bị che mờ từ
bấy lâu nay. Tôi suy luận qua câu chuyện của
những người tù Cộng Sản…Khi những
người tù đói, rét, tinh thần bị hành hạ thì
chỗ dựa duy nhất của họ là cầu khẩn
ơn trên. Sức mạnh tư tưởng, niềm tin
tập trung vào quán niệm tâm linh của họ mạnh
hơn gấp bội ngày xưa. Chính năng lượng
khổng lồ này đã đi đúng tần số. Tôi cố ôn lạI bài học lịch sử
nhưng chỉ nhớ mơ hồ. Tôi hỏI: ---Con nhớ Cụ Phan đình Phùng
đậu Tiến sĩ và chống Pháp, nhưng con quên
chi tiết rồi. --- Thời đó Tây lập Vua Đồng Khánh.
Tụi quân triều đình đông quá trời và còn có
cả Tây hỗ trợ, trong khi trên núi ăn uống vô
cùng cực khổ, Cụ bị kiết lỵ. Nhiều
lần Cụ bảo : « Thôi bây giờ anh em cứ
yên tâm . Để tui ra nộp mình cho nó yên đi ». Anh em
khóc quá trời ! Thành ra Cụ phải ở lại
Cụ gánh. Hoàng Cao Khải phái người đưa
thơ lên núi năn nỉ Cụ về làm quan nhưng
Cụ nhất quyết với non sông, chống Tây tới
giọt máu cuối cùng. Cụ anh hùng khí phách như
rứa mới hiển Thánh chớ đâu phải ai
chết cũng hiển Thánh ! ---Khi Ba được qua Mỹ rồi, Cụ
còn giáng cho thơ không Ba ? ---Còn chớ ! Thường thì phải
trên năm người Cụ mới giáng xuống.
Hồi mới qua Mỹ, anh em bên Pháp, Texas qua đây
tụ họp với nhau mỗi năm cầu Cụ. Có
năm Cụ giáng ở nhà mình nì. ---Lúc còn ở trong tù có bài nào Cụ cho
biết Ba được qua Mỹ không Ba ? Mắt Ba sáng lên : ---Có chớ. Ngày mai tươi sáng chẳng còn xa HồI đó anh em suy đoán chữ cờ
Hoa là nhờ Mỹ can thiệp, anh em mừng quá
trời ! Mà đúng thiệt! Sau này Mỹ ký kết nên
anh em được qua Mỹ theo diện H.O. Ba nhìn đồng hồ và nói: ---Áo quần sấy khô rồI, để Ba
đi lấy vô. Tôi theo Ba ra vườn. Năm nay Ba dựng
thêm một cái chòi nhỏ chứa áo quần cũ. Ba không
bao giờ chịu vô Shopping như tụI con gái của Ba.
Ba khoái mua đồ chợ TrờI mỗI cái 1 đô,
rồI giặt sạch treo lủng lẳng trong chòi
giống một gian hàng chợ Trời. MỗI lần có
ai đi Việt nam, Ba đóng thùng gởI về quê cho bà
con nghèo. Ba chui vào chòi, lôi ra mấy cái áo len đưa tôi: ---Con coi thử cái mô mặc được
thì đem về Pháp mà mặc. HồI ở tù ngoài Bắc
lạnh quá trời! Ba bị ho hoài. Ba cứ tưởng
bỏ xác ngoài nớ rồI chớ! TộI nghiệp Ba lúc nào cũng bị ám
ảnh bởI ngục tù Cộng sản! Tôi ngán ngẩm
cầm mấy cái áo lỗI thời, không dám làm Ba buồn,
nói “dạ, cám ơn Ba”nhưng định bụng
trước khi trở về Pháp sẽ đem vô nhét
lạI trong garage, nơi có hơn chục thùng đồ
cũ của Ba. May mà Ba sống chung vớI con rể cũng
là nạn nhân tù cảI tạo, hoàn toàn thông cảm căn
bịnh “số nhiều”của ông già vợ. Ba ngồI bệt dướI tấm
thảm, lui cui xếp đống áo quần của
cả nhà. Ba hớn hở nói: ---Ngày ni Ba làm mấy chuyện lặt
vặt cho xong. Mai Ba bận đi chùa. Ba phụ tá phần
nghi lễ và là huynh trưởng Phật tử. Tôi vừa phụ vừa hỏI chuyện: ---Năm ngoái Ba bị mỗ bướu gan,
chừ đỡ chưa Ba ? ---Lành rồi. Người Mỹ tốt
thiệt ! Tiền thuốc men, bịnh viện họ
cho hết không tốn lấy một xu. Hồi ở tù
một chai thuốc đỏ cũng không có ! Bịnh
là chết ! Nhắc đến chữ
« chết », Ba chợt nhớ ra, nhìn thẳng vào
mặt tôi và nói với giọng bình thản : ---À, Ba dặn con Út rồi, khi mô Ba mất
thì thiêu và đem về làng mình. Ba muốn được
gần gũi ông bà tổ tiên. Tôi nao nao xúc động…Ba thường
tỏ lòng biết ơn người Mỹ, hết
lời khen ngợi các nước yêu chuộng tự do vô
cùng nhân đạo, tôn trọng nhân quyền, tín
ngưỡng…nhưng Ba vẫn muốn gởi nắm
xương tàn trên đất nước Việt nam. Lê Khánh Thọ |
|
|